Bàn giải pháp thu hút 140.000 nhân lực chất lượng cao cho ngành đường sắt

Admin

Nếu không có kế hoạch phát triển nhân lực từ sớm, Việt Nam sẽ khó tiếp nhận, làm chủ công nghệ đường sắt tốc độ cao và sẽ tiếp tục phụ thuộc vào nước ngoài trong suốt vòng đời dự án...

Bàn giải pháp thu hút 140.000 nhân lực chất lượng cao cho ngành đường sắt- Ảnh 1.

Giai đoạn 2025-2030, sẽ đào tạo ít nhất 35.000 nhân lực, tập trung đào đạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu triển khai các dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt điện khí hóa, đường sắt đô thị và bổ sung nguồn nhân lực giảng dạy cho các cơ sở đào tạo - Ảnh: Vẽ Al

Bộ Xây dựng vừa trình Chính phủ dự thảo đề án "Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" (Dự thảo Đề án).

Việt Nam đang đứng trước giai đoạn phát triển đột phá của ngành đường sắt với việc triển khai các dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia: đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Các dự án này có vai trò quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Mới đây, Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch phát triển 9 tuyến đường sắt mới và nâng cấp 7 tuyến hiện hữu, đặt mục tiêu đến năm 2045 phát triển 28 tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và TPHCM với tổng chiều dài hơn 1.100 km.

Đây là các dự án có quy mô đầu tư lớn, yêu cầu công nghệ hiện đại, đòi hỏi đội ngũ nhân lực có trình độ cao để thiết kế, xây dựng, quản lý và vận hành.

Kinh nghiệm quốc tế từ các quốc gia như Nhật Bản, Pháp, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc... cho thấy việc xây dựng hệ thống đường sắt tốc độ cao đều được triển khai đồng thời với việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bài bản từ sớm.

Thách thức lớn về nhân lực

Trong khi, thực tế hiện nay tại Việt Nam, Bộ Xây dựng nhìn nhận: ngành đường sắt đang đối mặt với thách thức lớn về nguồn nhân lực khi thiếu hụt về số lượng và chưa đáp ứng đồng bộ về chất lượng, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia có khả năng làm chủ công nghệ cao, quản lý dự án phức tạp và vận hành hệ thống đường sắt hiện đại.

Hơn nữa, hầu hết các công nghệ cốt lõi trong ngành đường sắt như thiết kế đầu máy, chế tạo toa xe, hệ thống điều khiển tín hiệu, tự động hóa, điện khí hóa... vẫn phụ thuộc vào nước ngoài, năng lực nội địa hóa còn hạn chế.

"Nếu không có kế hoạch phát triển nhân lực từ sớm, Việt Nam sẽ khó tiếp nhận, làm chủ công nghệ và sẽ tiếp tục phụ thuộc vào nước ngoài trong suốt vòng đời dự án.

Do đó, việc xây dựng và triển khai Đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt là hết sức cấp thiết, nhằm chủ động nguồn nhân lực chất lượng cao, bảo đảm đủ số lượng, đúng thời điểm và đạt trình độ chuyên môn cao, phục vụ hiệu quả công cuộc xây dựng, vận hành hệ thống đường sắt hiện đại, đồng thời thúc đẩy hình thành ngành công nghiệp đường sắt quốc gia tự chủ, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế", Bộ Xây dựng nêu bật.

Đào tạo đồng bộ 140.000 nhân lực đường sắt

Trước tình hình này, Bộ Xây dựng đã đưa ra mục tiêu là: Xây dựng đội ngũ nhân lực đường sắt đồng bộ, có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và năng lực công nghệ cao, đáp ứng yêu cầu triển khai các dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt quốc gia điện khí hóa và đường sắt đô thị; từng bước tiếp nhận, làm chủ công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp đường sắt hiện đại, tự chủ và bền vững.

Từ đây xác định mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn. Theo đó, giai đoạn 2025-2030 , sẽ đào tạo ít nhất 35.000 nhân lực, tập trung đào đạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu triển khai các dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt điện khí hóa, đường sắt đô thị và bổ sung nguồn nhân lực giảng dạy cho các cơ sở đào tạo.

Theo trình độ đào tạo: trình độ sau đại học khoảng 1.000 người; trình độ đại học khoảng 14.000 người; trình độ cao đẳng khoảng 11.000 người và trình độ trung cấp khoảng 9.000 người.

Theo nhóm ngành: Kỹ thuật xây dựng công trình đường sắt khoảng 4.700 người; Kỹ thuật xây dựng khoảng 16.300 người; Thông tin - tín hiệu đường sắt khoảng 3.700 người; Hệ thống điện và năng lượng đường sắt khoảng 1.100 người; Đầu máy - toa xe khoảng 1.700 người; Kinh tế xây dựng và kinh tế vận tải đường sắt khoảng 1.500 người; Khai thác vận tải đường sắt khoảng 6.000 người.

Cùng đó, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho ít nhất 12.000 người đáp ứng yêu cầu vận hành, khai thác, bảo trì các tuyến đường sắt, bao gồm: khoảng 4.500 người cho các tuyến đường sắt quốc gia và khoảng 7.500 người cho các tuyến đường sắt đô thị.

Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ về quản lý, phát triển và vận hành đường sắt cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia tại cơ quan, đơn vị thực hiện công tác quản lý nhà nước về đường sắt, khoảng 500 lượt người.

Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ về quản lý dự án đường sắt cho đội ngũ nhân lực làm công tác quản lý dự án, khoảng 1.000 lượt người.

Tuyển chọn ít nhất 1.000 người từ các cơ sở nghiên cứu, doanh nghiệp xây dựng, vận hành và công nghiệp đường sắt tham gia trực tiếp vào quá trình nghiên cứu, tiếp nhận chuyển giao, từng bước làm chủ từng phần công nghệ, công nghiệp đường sắt.

Trong đó: tiếp nhận, chuyển giao quy trình kiểm định kỹ thuật, nghiệm thu và giám sát thi công các dự án đường sắt khoảng 200 người; thi công công trình hạ tầng đường sắt điện khí hóa với tốc độ thiết kế từ 200 km/h trở lên khoảng 100 người; tham gia lắp ráp, cải tiến và sản xuất đầu máy, toa xe khoảng 300 người; lắp đặt, vận hành và bảo trì các hệ thống thông tin, tín hiệu hiện đại khoảng 200 người; tiếp nhận chuyển giao công nghệ bảo trì, sửa chữa lớn đối với đầu máy, toa xe và hệ thống hạ tầng kỹ thuật khoảng 200 người.

Giai đoạn 2031-2045 , sẽ đào tạo ít nhất 105.000 nhân lực, tăng cường đào đạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu triển khai các dự án và bổ sung nguồn nhân lực giảng dạy cho các cơ sở đào tạo. Tương tự giai đoạn 2025-2030, phân bổ đào tạo theo trình độ; nhóm ngành; bồi dưỡng nghiệp vụ về vận hành, bảo trì; quản lý nhà nước; quản lý dự án.

Đặc biệt, giai đoạn này số lượng nhân lực được tuyển chọn để đào tạo, tham gia trực tiếp vào quá trình nghiên cứu, tiếp nhận chuyển giao, từng bước làm chủ từng phần công nghệ, công nghiệp đường sắt tăng lên là 5.000 người.

Thu hút nhân tài, đãi ngộ lao động chất lượng cao

Để triển khai thực hiện hiệu quả các mục tiêu đề ra, tại dự thảo Đề án, Bộ Xây dựng đề xuất 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp.

Về hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực đường sắt; trong đó có cơ chế, chính sách để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt, chú trọng chính sách ưu đãi, đãi ngộ, thu hút, sử dụng và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là cán bộ quản lý nhà nước, kỹ sư, nghiên cứu viên, giảng viên, chuyên gia kỹ thuật tham gia đào tạo và tiếp nhận chuyển giao và làm chủ công nghệ.

Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách để thúc đẩy hợp tác các bên Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt; xây dựng cơ chế, mô hình hợp tác công - tư để kết hợp nguồn ngân sách nhà nước và nguồn vốn khu vực tư nhân trong và ngoài nước.

Về tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu, trong đó nâng cấp, đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất và trang thiết bị nghiên cứu - giảng dạy cho các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu trong lĩnh vực đường sắt, hướng tới hình thành các trung tâm thực hành - thí nghiệm chuyên sâu đạt trình độ tiên tiến, có khả năng phục vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu - triển khai công nghệ và tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật từ các dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt điện khí hóa và đường sắt đô thị.

Về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện các dự án đường sắt; vận hành, khai thác, bảo trì; quản lý nhà nước; quản lý dự án.

Về phát triển nguồn nhân lực nghiên cứu, ứng dụng, tiếp nhận chuyển giao và làm chủ công nghệ, công nghiệp đường sắt. Huy động nguồn nhân lực từ các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, tập đoàn, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đường sắt và các lĩnh vực liên quan để nghiên cứu, phối hợp tiếp nhận chuyển giao công nghệ và từng bước làm chủ từng phần công nghệ đường sắt tốc độ cao, đường sắt điện khí hóa và đường sắt đô thị. Trong đó, chú trọng nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, công nghệ robot và trí tuệ nhân tạo.

Cùng đó là các nhóm giải pháp về đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt; Về tăng cường truyền thông cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt.

Riêng về tăng cường huy động, đa dạng hóa nguồn lực đầu tư và tăng cường hợp tác công tư cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt, Bộ Xây dựng đề xuất lồng ghép các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp của Đề án vào các chương trình, đề án, dự án có liên quan đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt để sử dụng hiệu quả các nguồn kinh phí cho triển khai thực hiện Đề án.

Bộ Xây dựng cũng đề xuất kinh phí thực hiện Đề án sẽ sử dụng từ kinh phí đầu tư các dự án đường sắt; ngân sách nhà nước, bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư phân bổ cho các bộ, ngành theo quy định của pháp luật để thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của Đề án; kinh phí lồng ghép trong các chương trình, đề án đã được phê duyệt; nguồn hỗ trợ quốc tế và các nguồn hợp pháp khác để thực hiện nhiệm vụ, giải pháp của Đề án.

Phân khai nguồn vốn

Theo dự thảo Đề án Bộ Xây dựng đưa ra, kinh phí thực hiện sẽ phân khai từng nguồn vốn.

Nguồn vốn đầu tư dự án: Đào tạo nhân lực vận hành, khai thác, bảo trì, chuyển giao của nhà sản xuất, cung ứng dịch vụ... nằm trong tổng mức đầu tư của dự án.

Nguồn ngân sách nhà nước để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước; tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng (đầu tư hệ thống phòng thực hành... phục vụ đào tạo nhân lực ngành đường sắt, đặc biệt là đường sắt tốc độ cao); thực hiện chương trình, chính sách khuyến khích, thu hút người học vào các ngành, nghề phục vụ xây dựng, vận hành, khai thác, bảo trì các dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt điện khí hóa, đường sắt đô thị; Đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia, giảng viên tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu để thực hiện đào tạo, tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu và phát triển sản phẩm công nghiệp đường sắt, làm chủ công nghệ, công nghiệp đường sắt.

Nguồn vốn của doanh nghiệp để đào tạo, bồi dưỡng nhân lực phục vụ nhu cầu xây dựng, vận hành, khai thác, bảo trì của doanh nghiệp; đào tạo bồi dưỡng nhân lực tham gia nghiên cứu - phát triển, tiếp nhận chuyển giao, làm chủ công nghệ tại các doanh nghiệp.

Nguồn vốn do người học, đơn vị sử dụng lao động chi trả để đào tạo các trình độ giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; đào tạo theo đặt hàng của đơn vị sử dụng lao động.

Cùng đó là nguồn kinh phí hợp pháp khác, bao gồm nguồn kinh phí huy động từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.