Ngày 16/6, với 100% đại biểu Quốc hội có mặt tán thành, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Trước khi Quốc hội bấm nút thông qua, Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đã giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp.
Theo đó, các ý kiến góp ý của Nhân dân, cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học đã được Chính phủ tổng hợp đầy đủ, trung thực, khách quan trong Báo cáo số 472/BC-CP và nhiều phụ lục kèm theo.
Trên cơ sở đó, Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp đã tổ chức nhiều phiên họp và nhiều lần lấy phiếu, xin ý kiến bằng văn bản để tổ chức nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội xem xét, thông qua theo nguyên tắc: Tất cả các ý kiến góp ý, dù là đa số hay thiểu số, đều được nghiên cứu, xem xét một cách đầy đủ, khách quan, kỹ lưỡng, không vì là ý kiến của thiểu số mà không được xem xét.
Đối với những vấn đề lớn, quan trọng, nổi lên trong quá trình lấy ý kiến Nhân dân hoặc trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý, Ủy ban đều kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của cấp có thẩm quyền. Bộ Chính trị, Ban Bí thư họp hàng tuần để nghe báo cáo về tình hình, kết quả lấy ý kiến Nhân dân, cho ý kiến chỉ đạo về công tác tiếp thu ý kiến, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp.
Sau mỗi lần tiếp thu, chỉnh lý, nội dung của dự thảo Nghị quyết ngày càng được hoàn thiện thêm. Ban đầu, Ủy ban đề nghị sửa đổi, bổ sung 08/120 điều, khoản của Hiến pháp năm 2013, nhưng sau khi nghiên cứu những ý kiến góp ý rất xác đáng, hợp tình, hợp lý, lập luận chặt chẽ, thuyết phục của các cơ quan, tổ chức, của Nhân dân, các chuyên gia, nhà khoa học và của đại biểu Quốc hội, Ủy ban đã đề nghị tiếp thu, chỉ sửa đổi, bổ sung 05/120 điều, khoản, giữ lại 03 điều tiếp tục thực hiện theo quy định của Hiến pháp hiện hành.
Các nội dung vẫn giữ như hiện nay là quy định về việc lấy ý kiến Nhân dân khi thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính (khoản 3 Điều 110); quy định về “chính quyền địa phương” và “cấp chính quyền địa phương” (các điều 111, 112 và 114); về quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân (khoản 2 Điều 115).
Đồng thời, Ủy ban cũng tiếp thu, chỉnh lý tại tất cả 5/5 điều, khoản được đề nghị sửa đổi, bổ sung trong Hiến pháp và cả điều khoản thi hành, điều khoản chuyển tiếp trong dự thảo Nghị quyết, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất cả về nội dung và kỹ thuật thể hiện.
Các nội dung mà Nhân dân, đại biểu Quốc hội đã tham gia ý kiến nhưng chưa được tiếp thu cũng đều đã được nghiên cứu, cân nhắc, có giải trình cụ thể và được báo cáo đầy đủ với Quốc hội tại các Báo cáo số 15 và số 17-BC/UBDTSĐBSHP của Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp.
So với bản dự thảo Nghị quyết được trình Quốc hội thảo luận tại phiên họp ngày 13/6/2025, bản dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội thông qua đã được tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, chỉnh lý, bổ sung quy định tại đoạn cuối khoản 3 Điều 2 của dự thảo Nghị quyết nhằm tạo cơ sở cho việc thực hiện chuyển tiếp một cách thuận lợi trong quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính trong cả nước khi chuyển sang mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, đặc biệt là tại các phường thuộc thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đang thực hiện mô hình chính quyền đô thị không tổ chức Hội đồng nhân dân.
Sau khi tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội thông qua có 2 điều, trong đó, Điều 1 sửa đổi, bổ sung 5 điều, khoản của Hiến pháp hiện hành (gồm Điều 9, Điều 10, khoản 1 Điều 84, Điều 110 và Điều 111); Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành của Nghị quyết, kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện và điều khoản chuyển tiếp (được rà soát, tiếp thu, chỉnh lý để cụ thể hóa các Kết luận số 150-KL/TW, số 163-KL/TW và số 167-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư).
Sau khi Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) được Quốc hội thông qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 34 nghị quyết về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã cùng với Nghị quyết số 202/2025/QH15 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh sẽ tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ, bảo đảm để tất cả các đơn vị hành chính trên cả nước thực hiện thống nhất mô hình chính quyền địa phương 2 cấp và các đơn vị hành chính hình thành sau sắp xếp chính thức hoạt động từ ngày 01/7/2025.
Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 vừa được Quốc hội biểu quyết thông qua gồm 2 Điều:
Điều 1
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:
1. Sửa đổi, bổ sung Điều 9 như sau:
“Điều 9
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thể hiện ý chí, nguyện vọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; phản ánh ý kiến, kiến nghị của Nhân dân đến các cơ quan nhà nước; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; được tổ chức và hoạt động thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; cùng với các tổ chức thành viên khác của Mặt trận hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.”;
2. Sửa đổi, bổ sung Điều 10 như sau:
“Điều 10
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động; đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên công đoàn và người lao động; là đại diện duy nhất của người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế về công đoàn; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”;
3. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 84 như sau:
“1. Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.”;
4. Sửa đổi, bổ sung Điều 110 như sau:
“Điều 110
1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thành hai cấp, gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do luật định.
2. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
3. Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do Quốc hội quy định.”;
5. Sửa đổi, bổ sung Điều 111 như sau:
“Điều 111
1. Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở đơn vị hành chính phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo do Quốc hội quy định.
3. Chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định khi thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đó.”.
Điều 2
1. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày được thông qua.
Chủ tịch nước thực hiện việc công bố Nghị quyết này.
2. Kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện trong cả nước từ ngày 01 tháng 7 năm 2025.
3. Khi kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan sau khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và kết thúc hoạt động của đơn vị hành chính cấp huyện trong năm 2025 thì không tiến hành bầu các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Ủy ban nhân dân tại đơn vị hành chính hình thành sau sắp xếp; không bầu Trưởng đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hình thành sau sắp xếp. Căn cứ thông báo của cấp ủy có thẩm quyền quản lý cán bộ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ định Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân, Trưởng đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hình thành sau sắp xếp; Thủ tướng Chính phủ chỉ định Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hình thành sau sắp xếp; Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ định Ủy viên Ủy ban nhân dân cùng cấp và chỉ định Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân của đơn vị hành chính cấp dưới hình thành sau sắp xếp; Thường trực Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hình thành sau sắp xếp chỉ định Ủy viên Ủy ban nhân dân cùng cấp. Trường hợp đặc biệt, cho phép chỉ định nhân sự không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân giữ các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân ở đơn vị hành chính hình thành sau sắp xếp hoặc làm đại biểu Hội đồng nhân dân để hình thành Hội đồng nhân dân lâm thời ở các phường đang thực hiện mô hình chính quyền đô thị không tổ chức Hội đồng nhân dân.