Việt Nam đang đào tạo y khoa không giống ai?

Admin

Có một vấn đề đã được nhận ra từ rất lâu nhưng đến nay vẫn chưa thay đổi nhiều, đó là làm sao đào tạo y khoa ở Việt Nam tiếp cận được chuẩn quốc tế.

y khoa - Ảnh 1.

GS.TS Lê Ngọc Thành, hiệu trưởng Trường đại học Y Dược (bìa phải) và PGS.TS Phạm Cẩm Phương (bìa trái) trao bằng tốt nghiệp cho bác sĩ nội trú chuyên ngành ung thư Vũ Thị Niên sáng 30-7 - Ảnh: NGUYÊN BẢO

Từ năm 2010, dự án đổi mới giáo dục y khoa của Trường đại học Y Dược TP.HCM theo xu hướng của giáo dục y khoa hiện đại trên thế giới được khởi động.

Tháng 11-2015, Bộ Y tế, Ngân hàng Thế giới, Liên minh châu Âu tại Việt Nam cũng khởi động dự án "Giáo dục và đào tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y tế" (HPET), qua đó đã có những bàn thảo đề xuất mô hình đào tạo bác sĩ theo yêu cầu mới. Mới nhất là đề xuất đổi mới đào tạo bác sĩ của Trường đại học Y Dược thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tuổi Trẻ đã trao đổi với GS.TS Lê Ngọc Thành, hiệu trưởng Trường đại học Y Dược (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Những nơi mà đầu vào ngành bác sĩ thấp quá, chất lượng đào tạo cũng thấp thì có nên duy trì hay không?
GS.TS Lê Ngọc Thành (hiệu trưởng Trường đại học Y Dược thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội)

"Mình không giống ai..."

* Bằng bác sĩ của nhiều nước lân cận chúng ta đã được quốc tế công nhận, tại sao mình chưa được?

- Lý do là mình không giống ai, như Singapore đang theo mô hình của Anh; còn Thái Lan, Đài Loan (Trung Quốc) đang theo mô hình Mỹ. Như ở Mỹ sau khi học 10 năm sẽ là

Sinh viên Trường đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận bằng tốt nghiệp sáng 30-7 - Ảnh: NGUYÊN BẢO

Cần siết lại khâu tuyển sinh và đào tạo

* Hiện nay Việt Nam đang có chương trình theo mô hình đào tạo của Pháp là mô hình bác sĩ nội trú, đây là những bác sĩ được cho là "tinh hoa" của y khoa. Có nên mở rộng mô hình này?

- Trước đây khởi thủy ở nước ngoài, mô hình đào tạo bác sĩ nội trú để đào tạo những người giỏi nhất nhằm để có bác sĩ chữa bệnh cho những người giàu có nhất, nhưng tôi cho là bác sĩ chữa bệnh phải có chất lượng đồng đều, cho mọi người bệnh. Vì vậy những mô hình tốt cần giữ và nhân lên, nhưng cũng phải có sự đồng đều về chất lượng nói chung.

* Có một vấn đề đã được đặt ra là đào tạo y khoa ở Việt Nam đã đắt đỏ hơn các ngành khác, nhưng các bác sĩ tương lai vẫn chưa có nhiều thiết bị tiên tiến, thiết bị mô phỏng để học, sinh viên vẫn phải học trên những học cụ đã cũ. Ông nghĩ thế nào về điều này?

- Thời xưa chúng tôi học thì có thể được học tiêm trên người bệnh và thế là người ta bị tiêm đau (cười). Nay thì dạy và học y khoa đã được đổi mới nhiều, nhưng chúng ta vẫn chưa dạy được nhiều trên mô phỏng mà mới là bắt đầu có và chưa được đầu tư bài bản.

Vì thế cùng với đổi mới về chương trình, giáo trình, rất cần siết lại khâu tuyển sinh và đào tạo, những nơi mà đầu vào ngành bác sĩ thấp quá, chất lượng đào tạo cũng thấp thì có nên duy trì hay không? Hay qua đánh giá của Hội đồng Y khoa tới đây mà tỉ lệ chưa đạt chuẩn ở cơ sở đào tạo nào còn cao thì có nên xem xét không? Đồng thời đầu tư mạnh cho các cơ sở đào tạo chất lượng.

* Có một vấn đề chúng tôi gặp gần đây là nhiều sinh viên học lâm sàng tại bệnh viện nhưng thực ra vẫn là "học chay", thiếu nơi thực hành. Điều này có cần phải thay đổi?

- Hiện nay số lượng cơ sở đào tạo y khoa nhiều, số lượng sinh viên nhiều trong khi số bệnh viện thực hành để đào tạo lâm sàng chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Nghề y là nghề đặc biệt, cần tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt, nhưng sau 6 năm học bậc đại học, lương khởi điểm bác sĩ chỉ bằng với các ngành có thời gian học 4 năm, đây là điều cũng rất cần phải thay đổi.

Có khoảng 30 trường đại học đào tạo ngành bác sĩ đa khoa

Việt Nam bắt đầu đào tạo y khoa từ đầu thế kỷ 20 (Trường đại học Y Hà Nội thành lập năm 1902). Tính đến năm 2025, có khoảng 30 trường đại học đào tạo ngành bác sĩ đa khoa (y khoa) tại Việt Nam. Cụ thể:

• Miền Bắc và miền Trung có 19 trường, bao gồm cả Trường đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y Dược Thái Bình, Đại học Y Dược Huế.

• Miền Nam có 11 trường đào tạo ngành y khoa, trong đó có Đại học Y Dược TP.HCM, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Đại học Y Dược Cần Thơ.

Ngoài ra, một số trường mới, trường tư thục được cấp phép đào tạo ngành y khoa. Số trường đào tạo y đa khoa những năm gần đây có gia tăng. Dẫn đến số lượng bác sĩ ra trường hằng năm có tăng. Năm 2015, 2016 mỗi năm có khoảng 8.000 bác sĩ ra trường, đến 2023 con số này là khoảng 10.000 bác sĩ.

Thông thường hiện nay sau 6 năm ở bậc đại học, các bác sĩ muốn làm việc độc lập phải học bác sĩ nội trú (3 năm) hoặc bác sĩ chuyên khoa cấp 1, 2, hoặc học thạc sĩ, tiến sĩ.

Chuẩn hóa là yêu cầu cấp thiết

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan khẳng định trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, việc chuẩn hóa năng lực bác sĩ và các chức danh y tế là yêu cầu cấp thiết để công nhận bằng cấp và chứng chỉ lẫn nhau giữa các quốc gia; tạo điều kiện cho bác sĩ và nhân lực y tế Việt Nam hành nghề ở nước ngoài và ngược lại. "Việc có một cơ quan đánh giá độc lập sẽ buộc các cơ sở đào tạo y khoa nâng cao chất lượng giảng dạy và đầu ra. Qua đó, chỉ những người đủ trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp mới được cấp giấy phép hành nghề", bà Lan chia sẻ.

Người học y phải chịu áp lực rèn luyện, học thật, làm thật thì mới có thể đảm đương công việc liên quan đến sinh mạng con người.
GS.TS Nguyễn Viết Tiến (phó chủ tịch thường trực Hội đồng Y khoa quốc gia)

Không đủ năng lực, không thể hành nghề y

Trong khu vực Đông Nam Á, hầu hết các quốc gia đều có hội đồng y khoa quốc gia để đánh giá, cấp phép hành nghề y. Tại Việt Nam, từ năm 2027 cũng sẽ triển khai kỳ thi đánh giá năng lực hành nghề y do Hội đồng Y khoa quốc gia tổ chức.

Đây là bước ngoặt quan trọng trong đào tạo và quản lý nhân lực y tế, nhằm đảm bảo người hành nghề thực sự đủ năng lực chuyên môn và đạo đức.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, GS.TS Nguyễn Viết Tiến - phó chủ tịch thường trực Hội đồng Y khoa quốc gia, nguyên thứ trưởng Bộ Y tế - cho hay hiện nay chúng ta vẫn cấp phép hành nghề y dựa vào bằng cấp, nghĩa là ai tốt nghiệp, đủ thời gian thực hành là được xét cấp phép, chưa có một công cụ chính thức để đánh giá năng lực hành nghề.

Chính vì vậy, Hội đồng Y khoa quốc gia được thành lập theo quyết định của Thủ tướng nhằm xây dựng và triển khai hệ thống đánh giá năng lực chuẩn mực, trước mắt áp dụng với người mới tốt nghiệp từ năm 2027, sau đó mở rộng ra tất cả các chuyên ngành. "Tất cả những người muốn hành nghề y, kể cả bác sĩ nội trú, đều phải tham gia.

Kỳ thi không chỉ đánh giá kiến thức chuyên môn mà còn cả kỹ năng lâm sàng, tổ chức cấp cứu, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết pháp luật y tế. Nếu không đạt, hoàn toàn có thể thi lại. Nhưng điều quan trọng là ai không đủ năng lực thì không thể hành nghề, tránh nguy cơ gây hại cho bệnh nhân", ông Tiến cho hay và khẳng định kỳ thi sẽ góp phần nâng cáo chất lượng y khoa tại Việt Nam.

Theo ông Tiến, một vấn đề đang xảy ra trong đào tạo y khoa tại Việt Nam là đầu vào rất khó nhưng đầu ra lại quá dễ. "Ở Việt Nam, khi đã đậu vào trường y thì gần như chắc chắn ra trường, tỉ lệ tốt nghiệp có khi lên tới 99%.

Trong khi ở các nước tiên tiến, chẳng hạn như Mỹ, mặc dù đầu vào của các trường đại học không khó nhưng trong quá trình đào tạo, ai không có đủ năng lực sẽ bị loại. Việc đào tạo gần như một cái hình chóp, cái đáy là đầu vào còn đỉnh là đầu ra.

Vì vậy, chúng ta cần thay đổi tư duy phải siết đầu ra. Người học y phải chịu áp lực rèn luyện, học thật, làm thật thì mới có thể đảm đương công việc liên quan đến sinh mạng con người", ông Tiến bày tỏ quan điểm.

Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Y khoa quốc gia cũng thẳng thắn nhìn nhận thực tế hiện nay nhiều sinh viên y khoa thiếu cơ hội thực hành. Ông chia sẻ trước đây khi còn là bác sĩ nội trú đã có điều kiện thực hành nhiều. Một ngày có thể tham gia 4 - 5 ca mổ, nhưng đó là số ít.

Còn hiện nay thực tế các sinh viên không có nhiều cơ hội. Vì vậy theo ông, các trường phải đầu tư mô hình học tiền lâm sàng. "Hiện có nhiều mô hình giả lập hiện đại mô phỏng tình trạng bệnh lý gần như thật, cho phép sinh viên thực hành chỉ định thuốc, tiêm truyền, xử trí cấp cứu... sai một bước là thấy ngay hậu quả. Đây là giải pháp quan trọng để bù đắp hạn chế môi trường thực hành hiện nay", ông Tiến nói.

y khoa - Ảnh 3.

Các sinh viên y khoa đang được đào tạo kỹ năng lâm sàng tại Trường đại học Phẫu thuật Mỹ (ACS), Chicago - Ảnh: ACS

Kinh nghiệm từ Mỹ, Anh và Nhật Bản

* Tại Mỹ: Chương trình đào tạo y khoa yêu cầu người học phải trải qua lộ trình dài và cạnh tranh khốc liệt. Theo công ty tư vấn du học y khoa và hỗ trợ ứng tuyển vào Trường đại học y Medifan, trước tiên sinh viên cần hoàn thành 4 năm đại học với chương trình tiền y khoa (pre‑med). 

Sau đó, sinh viên phải vượt qua kỳ thi đầu vào để được xét tuyển vào các trường y, học tiếp 4 năm chương trình MD (Medical Doctor), với 2 năm lý thuyết và 2 năm thực hành lâm sàng. Giai đoạn tiếp theo, sinh viên tiếp tục thực tập nội trú (residency) kéo dài từ 3 - 7 năm tùy chuyên ngành.

Đối với sinh viên Mỹ, hệ thống đào tạo bác sĩ sau đại học được giám sát bởi Hội đồng Công nhận đào tạo sau đại học y khoa (ACGME). Đối với sinh viên quốc tế, một điều kiện bắt buộc là bằng cấp phải đến từ các trường nằm trong danh mục Trường Y khoa toàn cầu (WDOMS), đồng thời vượt qua kỳ thi cấp phép hành nghề y tại Mỹ (USMLE) để được cấp chứng nhận hành nghề bởi Ủy ban Giáo dục dành cho bác sĩ tốt nghiệp y khoa nước ngoài (ECFMG).

* Tại Anh: Khác với Mỹ, hệ thống đào tạo ngành y tại Anh cho phép học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đăng ký trực tiếp vào chương trình y khoa kéo dài từ 5 - 6 năm có tên gọi MBBS (hoặc MBChB). Sau khi tốt nghiệp, sinh viên phải hoàn thành thêm 2 năm chương trình thực hành lâm sàng bắt buộc "Foundation Programme" (FY1 - FY2) trước khi chọn chuyên khoa.

Các trường y tại Anh được quản lý bởi Hội đồng Y khoa Vương quốc Anh (GMC) - một cơ quan độc lập có chức năng quản lý, cấp phép và giám sát đạo đức nghề nghiệp của bác sĩ hành nghề tại Anh. Tuy nhiên từ năm 2024, bằng cấp y khoa của Anh sẽ chỉ được công nhận quốc tế, đặc biệt là tại Mỹ, nếu GMC được công nhận bởi Liên đoàn Giáo dục y khoa thế giới (WFME) - theo quy định mới về tiêu chuẩn toàn cầu của ECFMG.

Theo tờ Financial Times, dù bằng cấp của Anh vẫn được đánh giá cao trong khối Thịnh vượng chung, song sau sự kiện Brexit, một số nước châu Âu (EU) như Pháp và Đức đã không còn cơ chế tự động công nhận bằng cấp chuyên khoa từ Anh, mà cần thêm một số yêu cầu chứng chỉ và đào tạo bổ sung. 

Do đó, khả năng di chuyển và hành nghề quốc tế của bác sĩ tốt nghiệp từ hệ thống Dịch vụ y tế quốc gia của Vương quốc Anh (NHS) cũng bị ảnh hưởng một phần.

* Tại Nhật Bản: Ở châu Á, Nhật Bản là một trong số các quốc gia được xem là hình mẫu đào tạo y khoa theo chuẩn quốc tế. Tại đây, sinh viên học chương trình bác sĩ đa khoa kéo dài 6 năm sau trung học, gồm 4 năm lý thuyết và 2 năm thực hành lâm sàng tại bệnh viện. Sau khi tốt nghiệp, họ cần hoàn thành thêm 2 năm đào tạo lâm sàng cơ bản, rồi mới có thể theo chuyên ngành (3 - 5 năm tùy lĩnh vực), theo cổng thông tin chính thức của Thư viện Y khoa quốc gia Mỹ (NIH).

Đáng chú ý, từ năm 2017, Hội đồng Công nhận đào tạo y khoa Nhật Bản (JACME) - đơn vị đánh giá các trường y tại Nhật - đã được WFME công nhận, giúp Nhật trở thành quốc gia áp dụng chuẩn công nhận trường y theo tiêu chuẩn toàn cầu. Đến cuối năm 2024, gần như toàn bộ 82 trường y tại Nhật dự kiến đạt chuẩn công nhận quốc tế, mở ra cơ hội hành nghề rộng rãi cho bác sĩ Nhật trên toàn cầu.

Đặc biệt, Nhật Bản rất chú trọng cân bằng giữa lâm sàng và học thuật. Theo một nghiên cứu công bố trên tạp chí y khoa Medical Teacher năm 2023, sinh viên y tại Nhật dành trung bình hơn 240 giờ trong suốt quá trình đào tạo tại các trung tâm nghiên cứu học thuật của trường, cho thấy cam kết đào tạo bác sĩ có tư duy nghiên cứu và thực nghiệm lâm sàng.

Đổi mới đào tạo y khoa theo chuẩn quốc tế - Ảnh 4.Điểm sàn các trường đào tạo y dược phía Bắc, cao nhất 24 điểm

Có ba trường đào tạo y khoa phía Bắc cùng công bố điểm sàn 20,5 điểm với phương thức xét điểm thi tốt nghiệp THPT; phương thức xét học bạ, có trường xét tuyển từ 24 điểm.

Đọc tiếp Về trang Chủ đề