Thảo luận tại hội trường về dự án Luật Tình trạng khẩn cấp ngày 26/6, đại biểu Dương Khắc Mai, đoàn Đắk Nông cho rằng “chúng ta đang sống và đối mặt với môi trường đầy bất ổn của một thế giới đầy biến động, sự giận dữ của mẹ thiên nhiên là những biến đổi sâu sắc của khí hậu toàn cầu, những thảm họa thiên tai xảy ra với tần suất dày và ngày càng nghiêm trọng.
Để tạo hành lang pháp lý cho ứng phó kịp thời với những bất thường, bất định, phòng ngừa từ sớm, từ xa, đảm bảo an toàn cho đất nước, bảo vệ nhân dân, đại biểu tán thành việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp. Theo ông đây là nhiệm vụ hết sức cấp bách và cần thiết hiện nay.
TẠO CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐẦY ĐỦ, THỐNG NHẤT CHO CÁC TÌNH HUỐNG ĐẶC BIỆT
Về phạm vi điều chỉnh, theo đại biểu Mai, dự thảo luật đã tập trung quy định về tình trạng khẩn cấp và các biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp.
Tuy nhiên, thực tiễn ứng phó với đại dịch Covid-19 vừa qua cho thấy có những trường hợp để đảm bảo ứng phó với các tình huống nguy hiểm đe dọa đến sức khỏe, tính mạng của người dân, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cần thực hiện những biện pháp như trong tình trạng khẩn cấp nhưng không ban bố tình trạng khẩn cấp.
Mặt khác, qua rà soát cho thấy Luật An ninh quốc gia cũng có những quy định về việc áp dụng một số biện pháp cần thiết khi có nguy cơ đe dọa đến an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp.

Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 cũng như quy định Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp khác quy định của pháp luật hiện hành trong một số trường hợp cần thiết.
Do đó, đại biểu đề nghị cân nhắc bổ sung quy định về việc cho phép Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được áp dụng một số biện pháp cần thiết được quy định trong tình trạng khẩn cấp nhưng không ban bố tình trạng khẩn cấp để ứng phó kịp thời những tình huống nguy hiểm, cấp thiết, hạn chế khả năng xảy ra tình huống phải ban bố tình trạng khẩn cấp, nhất là hiện nay đang thực hiện chính quyền 2 cấp.
Đại biểu cũng cho rằng thực tiễn phòng chống đại dịch Covid-19 vừa qua đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm hết sức quý về chỉ đạo, điều hành kinh tế- xã hội, nhất là trong công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân nói chung và công tác phòng, chống dịch nói riêng. Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu những kinh nghiệm quý báu trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 để làm cơ sở quy định và các giải pháp phù hợp trong dự thảo luật này.
Tham gia góp ý dự thảo, đại biểu Tô Văn Tám, đoàn Kon Tum nêu quan điểm: Luật Tình trạng khẩn cấp có thể được nhìn nhận dưới nhiều góc độ của yêu cầu quản lý nhà nước, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thực tiễn cho thấy các tình huống khẩn cấp như dịch bệnh, thiên tai, thảm họa hay khủng bố…đe dọa đến cuộc sống của người dân và trật tự an toàn xã hội.

Theo đại biểu, quy định pháp lý hiện hành về tình trạng khẩn cấp còn được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nên chưa đầy đủ và thống nhất.
Luật hóa vấn đề xử lý tình trạng khẩn cấp trong một đạo luật là cần thiết, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất cho hoạt động chỉ đạo, điều hành và đảm bảo quyền con người trong các tình huống đặc biệt, thể chế hóa quan điểm của Đảng và phù hợp với thực tiễn.
Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp, đại biểu Tô Văn Tám nêu: tại Điều 9 dự thảo Luật quy định thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp là Ủy ban Thường vụ Quốc hội, công bố tình trạng khẩn cấp là Chủ tịch nước và căn cứ vào Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban bố tình trạng khẩn cấp, Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
Đại biểu Tô Văn Tám cho rằng đây là hai việc khác nhau: Ban bố tình trạng khẩn cấp là quyết định của cơ quan có thẩm quyền và ở đây là Ủy ban Thường vụ Quốc hội; còn công bố tình trạng khẩn cấp là việc thông báo công khai cho người dân và toàn xã hội về quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp để cơ quan tổ chức và người dân thi hành.
Trong khi đó, ở khoản 1 và khoản 4, Điều 9 quy định, trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp. Nếu quy định như vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp cũng không thể quyết định được ban bố tình trạng khẩn cấp mà nếu không có quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp thì không có căn cứ để Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp.
Do vậy, đại biểu đề nghị chỉnh lý lại theo hướng: "Trong tình trạng Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì trao quyền cho Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp và công bố tình trạng khẩn cấp theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ" để bảo đảm tính phù hợp.
TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP, QUÂN ĐỘI PHẢI ĐỨNG RA GÁNH VÁC
Phát biểu làm rõ một số vấn đề tại phiên thảo luận, Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định, việc xây dựng dự án Luật Tình trạng khẩn cấp tạo cơ sở pháp lý để triển khai hiệu quả khi có tình huống khẩn cấp, khắc phục được những bất cập, nhất là trong điều kiện chúng ta phải đối mặt với thách thức ngày một nhiều hơn về an ninh phi truyền thống.
Đại tướng Phan Văn Giang cũng nhấn mạnh yêu cầu thực hiện một cách chặt chẽ, bài bản, chuẩn mực để giải quyết trong các trường hợp có tình huống khẩn cấp xảy ra, xử lý, phản ứng một cách nhanh nhất để phòng, chống và ngăn ngừa hậu quả.

Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp, theo Bộ trưởng Phan Văn Giang, tiếp thu ý kiến của các đại biểu để các trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không họp được thì trường hợp nào và quy định thứ tự như thế nào để trao quyền cho Chủ tịch nước.
"Chúng tôi muốn cụ thể hóa bằng một việc của Thủ tướng Chính phủ, còn nếu ghi là cấp có thẩm quyền thì phải cụ thể hóa bằng nghị định. Tiếp thu ý kiến này chúng tôi sẽ nghiên cứu để cho chặt chẽ", Bộ trưởng nói.
Các thách thức an ninh phi truyền thống như bão lũ, thiên tai, động đất, sóng thần xảy ra ở rất nhiều nơi do tác động của biến đổi khí hậu. Đại tướng Phan Văn Giang nêu rõ, những thách thức này không thể một nước hoặc một khu vực có thể tự khắc phục mà cần sự chung tay, như việc khắc phục hậu quả động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ, Myanmar, nhiều nước trong đó có Việt Nam đã cử lực lượng đến hỗ trợ.
Đại tướng Phan Văn Giang khẳng định, trong tình trạng khẩn cấp thì lực lượng vũ trang, đặc biệt là Quân đội phải đứng ra gánh vác, bởi có các điều kiện, phương tiện và việc tổ chức lực lượng tập trung. Đây là một kinh nghiệm thực tế không phải chỉ của Việt Nam mà của các nước trên thế giới.
Với các ý kiến tâm huyết, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, Đại tướng Phan Văn Giang cho biết cơ quan soạn thảo sẽ nghiên cứu, tiếp thu để hoàn thiện dự án luật.